Tiểu sử Uyển_Trinh

Uyển Trinh xuất thân từ Diệp Hách Na Lạp thị, là con gái thứ hai của Huệ Trưng (惠徵), một quan lại người Mãn, cư trú ở Tây Tứ bài lâu (này là Tây Thành, Bắc Kinh). Ngày 28 tháng 7 (âm lịch), năm Đạo Quang thứ 21 (1841), giờ Tuất sinh ra.

Cũng như chị gái là Từ Hi Thái hậu, Uyển Trinh được cho là con cháu Diệp Hách bối lặc Kim Đài Cát, nhưng sự thực hoàn toàn không phải như vậy. Cứ theo Đức Hạ Nột Thế quản tá lĩnh tiếp tập gia phổ (德贺讷世管佐领接袭家谱) tại Trung Quốc đệ nhất lịch sử đương án quán (中国第一历史档案馆), thì tổ tiên của bà được gọi là Khách Sơn (喀山), thế cư Tô Hoàn, mang họ Na Lạp thị, cho nên nguyên bản phải được gọi là Tô Hoàn Na Lạp thị (甦完那拉氏) mới chính xác. Mà Tô Hoàn vốn ở trong lãnh thổ Diệp Hách, nên vài đời sau cứ lấy thế cư Diệp Hách, tạo thành ra "Diệp Hách Na Lạp thị" ngộ nhận[1][2][3].

Năm Hàm Phong nguyên niên (1851), chị cả của bà nhập cung trở thành Quý nhân của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế. Sau khi Lan Quý nhân được tấn phong Ý Quý phi, để củng cố quan hệ ngoại tộc Ná Lạp thị với dòng dõi Ái Tân Giác La, Ý Quý phi gợi ý Hàm Phong Đế ban hôn em gái Uyển Trinh và một cô gái khác là Nhan Trát Thị (顏扎氏), con gái của Lai Phúc (來福) cho Thuần Quận vương Dịch Hoàn, em trai cùng cha khác mẹ của Hàm Phong.

Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), Dịch Hoàn nhận ý chỉ thành hôn, ở Vương phủ Uyển Trinh là vợ cả của Dịch Hoàn nên được phong Phúc tấn, còn Nhan Trát Thị phong làm Trắc Phúc tấn. Năm thứ 11 (1861), Nhan Trát Thị sinh con gái trưởng cho Thuần Quận vương rồi qua đời, Uyển Trinh nuôi Tiểu Cách cách đến 5 tuổi thì yểu mệnh. Cùng năm này Hàm Phong Đế băng hà, truyền ngôi cho con trai duy nhất là Hoàng trưởng tử Tải Thuần (載淳), tức Thanh Mục Tông Đồng Trị Đế.

Chị gái của Uyển Trinh, mẹ đẻ của Tân đế trở thành Hoàng thái hậu, tức Từ Hi Thái hậu. Trong thời gian đầu, quyền hạn của Từ Hi Thái hậu rất hạn chế do sự tồn tại của Từ An Thái hậu. Năm Đồng Trị thứ 4 (1865), Uyển Trinh sinh con trai đầu đặt tên Tải Hãn (載瀚) song được 1 tuổi thì chết yểu. Năm thứ 10 (1871), Uyển Trinh lại sinh con trai thứ, đặt tên Tải Điềm. Năm thứ 11 (1872), Dịch Hoàn được phong [Thuần Thân vương; 醇親王]. Sang năm Đồng Trị thứ 13 (1874), Thuần Thân vương bị Đồng Trị Đế đánh giá là năng lực kém cỏi, đuổi khỏi triều đình song nhanh chóng phục chức do có sự can thiệp của Từ Hi Thái hậu.